BẢN HƯƠNG ƯỚC
LÀNG VĂN HÓA KIM GIAO
--------------------------------------------
LỜI NÓI ĐẦU
Theo lịch sử
để lại : Làng Kim Giao được thành lập vào năm 1468, dưới thời Lê Thánh Tông
Về vị trí của Làng :
-
Phía Đông :
giáp làng Trung An, xã Hải Khê
-
Phía Nam : giáp làng Diên Khánh, xã Hải Dương
-
Phía Tây :
giáp làng Trung Đơn và làng Phước Điền, xã Hải Thành
-
Phía Bắc :
giáp làng Kim Long, xã Hải Quế
Làng Kim Giao có 18 họ tộc: trong đó có 3 họ vô tợ (Hoàng,Trần, Lê)
Họ khai canh:
Trần Đông Tộc
Họ tiền khai
khẩn : Nguyễn, Trần, Dương, Võ, Võ, Hồ, Lê, Đặng. Các họ kế tục lập nghiệp:
Trần Trung, Lê Trung, Đặng Tây, Trương, Châu ,Tạ.
Đến năm 1995, được làng công nhận thêm họ Trần Hữu “Tổ Công”.
Toàn cảnh Đình làng Kim Giao
Để giữ gìn và
phát huy các thuần phong mỹ tục của quê hương, đề cao các chuẩn mực đạo đức và
tập quán tốt đẹp của dân tộc; xoá bỏ các hủ tục lạc hậu; phát triển các hình
thức hoạt động văn hoá lành mạnh, xây dựng đời sống văn hoá, văn minh và tiến
bộ xã hội; phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ
giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; thực hiện tốt cuộc vận động: “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”.
Đường vào làng
Để đạt được
những mục tiêu tốt đẹp mà làng văn hóa mong muốn; tiến tới xây dựng Nông thôn mới. Làng văn hóa Kim Giao xây dựng bản
Hương ước để toàn thể nhân dân thực hiện
như sau:
Chương I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi áp dụng
Hương ước này
quy định về các chuẩn mực xử sự của các hộ gia đình, cá nhân trong làng như: về
phát triển kinh tế - xã hội, về nếp sống văn hóa, quy định về việc cưới, việc
tang, việc lễ, hội; quy định về an ninh, trật tự, quy định về bảo vệ các công
trình công cộng, vệ sinh môi trường và bảo vệ rú cát …
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Các hộ gia
đình, cá nhân sinh sống trên địa bàn Kim Giao không phân biệt giới tính, dân
tộc, độ tuổi, trình độ chính trị, văn hoá, tôn giáo, hộ khẩu thường trú hay tạm
trú đều được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Đồng thời phải chấp hành
tốt các điều khoản trong bản Quy ước này.
Chương II
VỀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VÀ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG
Điều 3. Về phát triển kinh tế
Cơ giới hoá trong Nông nghiệp được HTX chú trọng đưa vào sản xuất
1. Phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống là quyền và trách nhiệm của mỗi người. Mọi người
trong làng có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh, giúp
nhau vay vốn giải quyết việc làm, truyền đạt kinh nghiệm tăng năng suất và chất
lượng trong sản xuất và kinh doanh.
2. Tổ chức tốt
cuộc vận động toàn dân đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, quản
lý và sử dụng đất đai có hiệu quả, đúng mục đích; chuyển đổi cơ cấu giống cây
trồng vật nuôi theo đúng quy định của pháp luật. Tăng cường áp dụng các biện
pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa các giống cây con có năng suất cao
theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo công ăn việc làm để tăng thêm thu nhập cho
người dân. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình, cá nhân phải gắn
với việc bảo vệ sản xuất kinh doanh và không làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh
doanh của người khác.
3. Khuyến
khích mọi người, mọi nhà làm giàu chính đáng, mở mang ngành nghề, dịch vụ,
trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm... hoặc các hình thức làm kinh tế khác
nhưng phải chấp hành đầy đủ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và chịu sự
quản lý của của BQT HTX và Thôn trưởng
4. Nghiêm cấm
việc lấn chiếm lòng lề đường, giao thông liên thôn, liên xóm, kể cả phần đất
lưu không đường giao thông, thủy lợi. Làng quy định lấy đất đổ nền nhà, đường
sá… là phải sau đê cát cách đường giao thông mỗi bên trên 30 mét, không ảnh
hưởng đến mồ mả đất sản xuất. Nếu ai vi phạm làng bắt buộc tháo dở và phạt 100 kg
thóc/lần vi phạm.
5. Nghiêm cấm
việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, sử dụng các loại hàng cấm, hàng
lậu, hàng giả theo quy định của pháp luật.
Chương III
VỀ NẾP SỐNG VĂN
HOÁ
Điều 4. Xây dựng nếp sống văn
hoá
1. Mọi người
trong làng phải tôn trọng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ Đảng, sự quản lý của
Ban Quản trị HTX, Thôn. Tham gia sinh hoạt các tổ chức, đoàn thể phù hợp với độ
tuổi và điều kiện của mỗi người.
2. Luôn giữ
gìn mối quan hệ láng giềng thân thiện, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sinh hoạt,
lúc khó khăn hoạn nạn, tôn trọng quyền lợi cuộc sống riêng của mỗi gia đình,
giải quyết tốt các mâu thuẫn và quyền lợi trong làng với ý thức xây dựng tình
làng nghĩa xóm chân thành, thẳng thắn, tế nhị, trung thực, dân chủ và bình
đẳng.
Quan tâm chăm
sóc các gia đình chính sách, người có công với cách mạng, thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sỹ, người tàn tật, người già cô đơn không nơi nương tựa,
người nghèo có hoàn cảnh khó khăn.
Các bô lão trong trang phục truyền thống- nét đẹp văn hoá của quê hương
Điều 5. Xây dựng gia đình văn
hoá
1. Các thành
viên trong gia đình phải biết tôn trọng, thương yêu nhau. Mỗi thành viên phải
biết hướng thiện, biết cảm thông và sống vị tha, cư xử đúng với vị trí của
mình, có nếp sống lành mạnh, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao. Giáo dục
nề nếp gia phong, dòng họ có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá,
truyền thống tốt đẹp của gia đình và dòng họ. Tự hoà giải các mâu thuẫn, xích
mích trong gia đình, tránh làm liên lụy đến cộng đồng, làng văn hóa.
2. Vợ, chồng
sống chung thuỷ, hoà thuận, bình đẳng, tôn trọng, chia sẻ và giúp đỡ nhau trong
mọi công việc. Có trách nhiệm nuôi dạy con cái và tạo điều kiện cho con cái
phát triển cả về mặt thể lực và trí lực, chịu trách nhiệm đối với hành vi của
con cái khi con cái chưa đến tuổi thành niên. Cùng nhau xây dựng gia đình ấm
no, tiến bộ, hạnh phúc.
3. Con cháu
hiếu thảo, kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông, bà, cha, mẹ.
4. Ông, bà
sống gương mẫu, chăm lo, dạy bảo con, cháu trở thành người có ích cho xã hội.
5. Đoàn kết
xóm giềng, tham gia các hoạt động hoà giải, tương trợ giúp đỡ nhau trong lao
động, sản xuất, khi khó khăn, hoạn nạn, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,
nhân đạo từ thiện ở cộng đồng.
6. Xây dựng
kinh tế gia đình ổn định, tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm, có kế hoạch phát triển
kinh tế gia đình, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên.
Điều 6. Dân số - Kế hoạch hoá
gia đình
1. Mỗi cặp vợ,
chồng chỉ đẻ 1 hoặc 2 con, không sinh con thứ 3 trở lên. Khoảng cách giữa hai
lần sinh nên từ 3 năm đến 5 năm. Độ tuổi sinh đẻ nên từ 22 tuổi đến 35 tuổi.
2. Mỗi cặp vợ,
chồng chủ động, tự nguyện sử dụng biện pháp tránh thai để thực hiện kế hoạch
hoá gia đình.
3. Cặp vợ,
chồng nào sinh con thứ 3 trở lên phải chịu phê bình trước toàn thể nhân dân và
không được xét công nhận “gia đình văn hoá” trong 2 năm.
Điều 7. Giáo dục, chăm sóc bà mẹ và trẻ em
1. Trẻ em phải
được tiêm chủng đầy đủ, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt nhất trong khả năng của
mỗi gia đình để trẻ em không bị suy dinh dưỡng.
2. Các hộ gia
đình có con, em đến tuổi đi học, trong độ tuổi đi học phải tạo điều kiện để
con, em đến trường học tập. Không được để con, em bỏ học giữa chừng. Ông, bà,
cha, mẹ phải có trách nhiệm cùng nhà trường theo dõi, dạy dỗ con cháu học tập,
rèn luyện đạt kết quả cao, hằng năm BĐH làng văn hóa có phần thưởng khuyến học
được trao cho các em học tập có thành tích cao vào ngày Quốc khánh 2/9, tại Đền
văn thánh của làng. Nếu con, em có khuyết điểm gia đình phải chịu trách nhiệm
dạy bảo để sửa chữa ngay.
3. Nếu hộ gia
đình nào để con, em bỏ học hoặc không cho con em đi học đúng độ tuổi quy định
sẽ bị nhắc nhở, phê bình trước cuộc họp toàn thể dân làng.
5. Nghiêm cấm
hộ gia đình vi phạm quyền trẻ em và trẻ em, vi phạm pháp luật. Không để trẻ em
bị lạm dụng tình dục, trẻ em tham gia lao động nặng nhọc, độc hại và bị ảnh
hưởng các tệ nạn xã hội khác.
Điều 8. Phát triển văn hoá văn
nghệ, thông tin, thể dục, thể thao
Bóng đá- môn thể thao không thể thiếu trong các hoạt động phong trào của Làng văn hoá
1. Các hộ gia
đình phải tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình được xem các buổi
diễn văn nghệ, diễn đàn; đọc sách báo, nghe đài phát thanh, theo dõi truyền
hình; tham gia sinh hoạt văn hoá, thể dục, thể thao phù hợp với lứa tuổi của
mình để rèn luyện sức khoẻ, tìm hiểu thế giới, phát triển toàn diện về thể chất
và tinh thần.
2. Nhân dân
trong làng phải có trách nhiệm giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. các công trình di tích lịch sữ : Đình làng, Miếu vũ,
Từ đường họ, Chùa, Nhà thờ, lăng tẩm, mồ mả và các công trình văn hóa của làng
là nơi tôn nghiêm, mọi người phải tôn trọng và bảo vệ. Nếu ai vi phạm thì phải
bồi thường giá trị và đề nghị chính quyền xử lý theo pháp luật.
3. Khuyến
khích mọi người trong làng tham gia các cuộc thi đấu thể dục, thể thao do xã,
huyện, tỉnh, trung ương tổ
chức.
Điều 9. Nghiêm cấm việc
buôn bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng các loại văn hoá phẩm đồi trụy và
kích động bạo lực. Không mở to các loại loa có công suất lớn làm ảnh hưởng đến
các hộ gia đình xung quanh. Các hàng quán hoạt động về đêm không làm ảnh hưởng
đến hàng xóm.
Chương IV
VỀ VIỆC
CƯỚI, VIỆC TANG, LỄ TẾT
Điều 10. Về việc cưới
Lễ vật trong cưới hỏi- nét đẹp văn hoá được lưu truyền từ bao đời nay
1. Tổ chức
việc cưới phải đảm bảo theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình như:
a) Nam từ 20
tuổi, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn, trước khi tổ chức lễ cưới đôi nam
nữ phải đến Uỷ ban nhân dân xã, làm thủ tục đăng ký kết hôn theo đúng quy định;
b) Không tổ
chức cưới tảo hôn hoặc vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng;
c) Không được
ép buộc, gả bán hoặc khôi phục những thủ tục lạc hậu.
2. Tổ chức đám
cưới phải trang trọng, vui tươi, lành mạnh, phù hợp với phong tục, tập quán,
bản sắc văn hoá của dân tộc và hoàn cảnh
kinh tế của từng gia đình, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, tránh phô trương hình
thức, gây lãng phí, hạn chế mâm bàn, hạn chế các tục lệ không cần thiết. Khuyến
khích tổ chức lễ cưới hỏi theo nếp sống mới.
3. Trong đám
cưới không nên uống rượu say, không được sử dụng các thiết bị âm thanh gây
tiếng ồn vượt quá mức quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến xung quanh và
trật tự công cộng; Không được mở loa máy, chơi nhạc sau 22 giờ và trước 6 giờ
sáng.
Điều 11. Về việc tang
1. Khi có
người qua đời các gia đình phải thông báo với đoàn thể, (cao tuổi, nông
dân,thanh niên…) thông báo cho nhân dân trong làng biết và gia đình có người
chết phải đến UBND xã để làm thủ tục khai tử. Khi nhận được thông báo các hộ
gia đình nên bố trí người đến giúp đỡ, chia buồn phúng điếu và cùng đưa linh
cửu đến nơi an nghỉ cuối cùng.
2. Việc tổ
chức tang lễ chu đáo, trang nghiêm, gọn nhẹ, tiết kiệm phù hợp với phong tục
tập quán, bản sắc văn hoá và hoàn cảnh của từng gia đình.
a) Khi tổ chức
tang lễ phải thực hành tiết kiệm, tổ chức ăn uống cho người phục vụ đơn giản,
hợp vệ sinh. Không tổ chức ăn uống cho người hành hương.
b) Không được
để thi hài người quá cố quá 48 giờ. Trường hợp chết do bệnh dịch lây nhiễm nguy
hiểm thì phải tổ chức chôn cất ngay theo quy định của Bộ Y tế. Nếu hộ nào vi
phạm thì lập biên bản đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết.
c)Làng quy
định điểm mai táng (chôn) người chết là sau 3 động như : Nghè, lòi ông Bàng và
đề nghị đại diện gia đình phải báo với ban bảo vệ rú, được BĐH Làng thống nhất,
cấm xâm lấn mồ mả được chôn cất từ trước và khoảng cách tim mộ này đến tim mộ
khác là 10 mét. Yêu cầu không được choán hướng trước, không đạp đầu sau. Lấy
đất đổ mồ mả, không được ảnh hưởng đến mồ mả nhà khác, cây rừng tự nhiên và phải
được sự nhất trí của BĐH làng văn hóa, ban bảo vệ rú. Nếu ai vi phạm sẻ bị làng
phạt 100 kg thóc và buộc trả lại hiện trạng ban đầu.
Điều 12. Về tổ chức ngày lễ, tết,
giỗ, ngày hội…
1. Trong các
dịp ngày lễ, tết, giỗ, ngày hội, ngày hiếu, hỷ… là dịp hội tụ con cháu gần, xa
về quê hương. Các gia đình, dòng họ cần thông qua dịp này để nhắc nhở, dạy bảo
con cháu nhớ về cội nguồn, tình cảm, trách nhiệm với gia đình, quê hương, thôn,
xóm. Biểu dương khuyến khích những việc làm tốt, phê bình những biểu hiện tiêu
cực.
Việc tổ chức
ngày lễ, tết, giỗ, ngày hội… phải gọn nhẹ, không phô trương, linh đình, không
kéo dài thời gian.
2. Lễ hội là
sinh hoạt văn hoá tinh thần thể hiện tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân
dân. Hàng năm làng làng tổ chức lễ hội truyền thống như: Lễ Xuân đinh vào các
ngày 16-17 tháng Giêng, Lễ Thu tế ngày 16-17 tháng 7 (Âm lịch) và ngày Tảo mộ Âm
hồn . Mọi người trong làng có trách nhiệm tham gia lễ hội. Khi tổ chức lễ hội
phải thực hành tiết kiệm, không làm ảnh hưởng đến sản xuất, an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội. Không được lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan
và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Các ngày Lễ
Tết của quê hương đất nước, mọi gia đình treo cờ Tổ quốc, thờ ảnh Bác Hồ tại
nơi trang trọng nhất, phải hưởng ứng làm vệ sinh môi trường công cộng và xung
quanh nhà. Nếu gia đình nào không chấp
hành thì BĐH làng nhắc nhở cảnh cáo trước toàn dân.
Chương V
VỀ AN NINH
TRẬT TỰ
Điều 13. Việc đăng ký hộ tịch,
hộ khẩu
1. Về đăng ký
hộ tịch
a) Các trường
hợp khai sinh, khai tử, kết hôn,... phải đăng ký tại UBND xã theo quy định của
pháp luật về hộ tịch.
b) Trẻ em khi
sinh ra phải làm thủ tục đăng ký khai sinh trong vòng 60 ngày.
Trẻ em ngày càng được quan tâm chăm sóc tốt hơn
c) Việc kết
hôn phải được đăng ký trước khi hai bên gia đình nam, nữ tổ chức đám cưới hoặc
trước khi hai bên nam, nữ chung sống với nhau.
2. Về đăng ký
hộ khẩu
a) Sau khi
đăng ký hộ tịch phải thực hiện đăng ký hộ khẩu trong các trường hợp sau:
- Trẻ em sau
khi đăng ký khai sinh còn cư trú tại địa phương;
- Đăng ký nhập
khẩu trong trường hợp vợ hoặc chồng về sống chung với nhau;
- Con nuôi về
sống chung với cha mẹ nuôi; con về ở với cha, mẹ hoặc cha, mẹ về ở với con;
- Đối với
trường hợp khai tử phải làm thủ tục theo quy định của pháp luật.
b) Khi có
người chuyển đến cư trú lâu dài phải thực hiện đăng ký nhập khẩu, nếu có người
chuyển đi phải thực hiện đăng ký chuyển khẩu.
c) Con dân của
làng đi làm ăn xa hoặc có việc cần đi xa dài ngày phải kê khai tạm vắng và xin
giấy chứng nhận của chính quyền địa phương.
Hộ gia đình có
người lạ lưu trú qua đêm phải báo với Công an viên, nếu không báo, khi có vụ
việc đáng tiếc xảy ra hộ có người lưu trú phải chịu trách nhiệm trước làng văn
hóa và trước pháp luật.
3. Nếu ai vi
phạm các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này sẽ bị phê bình trước cuộc họp
toàn làng và sẽ bị BĐH làng văn hóa lập biên bản để đề nghị cấp có thẩm quyền
xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 14. Giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội
1. Tất cả mọi
người có trách nhiệm xây dựng và giữ gìn an ninh trật tự trong thôn xóm. Không
phát ngôn trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, thuần phong mỹ tục, tập quán tốt đẹp của quê hương, đất nước.
2. Mọi cá nhân
không được có các hành vi làm hư hại công trình công cộng. Không được kích động
gây chiến tranh tâm lý, gây rối trật tự, làm mất đoàn kết, gây gỗ hằn thù, đánh
chửi nhau. Nghiêm cấm tàng trữ, mua bán, sử dụng vũ khí, hung khí, chất nổ.
Không dùng chất nổ, xung điện, kích điện để đánh cá, diệt chuột… Nghiêm cấm
đánh bạc, chứa bạc dưới mọi hình thức. Có ý thức đấu tranh phòng và chống các
tệ nạn trộm cắp, rượu chè bê tha, hút chích ma tuý, mại dâm, truyền bá, kích
động văn hoá phẩm đồi trụy…
3. Khi phát
hiện kẻ gian, kẻ gây rối, những người có hành vi vi phạm pháp luật phải báo
ngay cho Công an hoặc Thôn trưởng để xử lý kịp thời.
a) Những người
vi phạm pháp luật dưới 16 tuổi nếu gây thiệt hại, thì cha mẹ có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Nếu người trên 16 tuổi thì phải xử lý theo pháp luật và Hương
ước của làng văn hóa.
b) Mọi người,
mọi nhà phải nêu cao tinh thần cảnh giác, tự bảo vệ tài sản riêng của mình. Ban
đêm hoặc khi đi vắng phải đóng cổng, khoá cửa đề phòng kẻ gian.
c) Mọi hoạt
động ban đêm sau 22 giờ không được gây ồn ào ảnh hưởng đến người khác.
4. Mọi tranh
chấp về quyền lợi, mâu thuẫn cá nhân phải được hoà giải từ làng. Đơn thư khiếu
kiện của công dân phải gửi đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định
của Luật Khiếu nại tố cáo, không được gửi vượt cấp khi cấp cơ sở chưa giải
quyết hoặc giải quyết chưa xong; không lôi kéo để khiếu kiện vượt cấp, đông
người.
5. Nếu ai vi
phạm các quy định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều này thì bị BĐH làng văn hóa lập biên bản để đề nghị cơ
quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 15. Phòng cháy, chữa cháy,
phòng chống lụt bảo,giảm nhẹ thiên tai
1. Mọi người,
mọi nhà đều phải có ý thức phòng cháy, chữa cháy. Khi xảy ra hoả hoạn các gia
đình, cá nhân phải cùng nhau chống hoả.
2. Nêu cao
tinh thần phòng chống lụt bão, lấy phòng làm chính, chủ động trong các tình
huống thiên tai xảy ra, có tinh thần giúp đỡ lẫn nhau “lá rách ít đùm lá rách
nhiều cùng nhau vượt qua hoạn nạn” .
3. Làng quy
định trước tháng 8 mọi gia đình phải chủ động đào ao, phát quang bụi rậm, khơi
thông cống rãnh xung quanh nhà mình ở. Nếu gia đình nào không làm, làng khoán
người khác làm, gia đình đó phải trả công và phạt mỗi lần bằng 100 kg thóc.
Chương VI
VỀ BẢO VỆ CÔNG
TRÌNH CÔNG CỘNG, VỆ SINH, MÔI TRƯỜNG VÀ BẢO VỆ, PHÁT RÚ CÁT
Điều 16. Về bảo vệ các công
trình công cộng
1. Mọi người
trong làng phải có trách nhiệm bảo vệ các công trình công cộng như: Cơ quan
HTX, Trung tâm học tập cộng đồng, nhà văn hoá, sân vận động, đường giao thông,
các thiết chế văn hoá, đường dây tải điện, hệ thống truyền thanh, hệ thống cấp,
thoát nước và các công trình khác.
2. Các công
trình và tài sản phúc lợi tập thể, các trục đường giao thông, mương máng, không
ai được tự ý sửa đổi lấn chiếm. Không được viết, vẽ bậy, bôi bẩn lên bảng pano,
áp phít, tường bao và những nơi công cộng khác. Ai vi phạm thì bị buộc khôi
phục lại tình trạng ban đầu và lập biên bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử
lý.
3. Khi xây
dựng các công trình: Nhà ở, tường bao... không được lấn chiếm đất công, phải
đảm bảo khoảng cách không gian, đảm bảo an toàn cho công trình tập thể, nhân
dân, theo quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Nếu ai vi phạm sẽ buộc tháo dỡ,
phải bồi thường thiệt hại và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Nghiêm cấm
việc đào, phá và lấy đất gần đường , cầu cống để bảo vệ đường giao thông trong
làng và các tuyến đường nội đồng, rú cát, không để các loại vật liệu trên đường
làm cản trở giao thông đi lại và ảnh hưởng đến tuổi thọ của đường. Làng nghiêm
cấm tất cả các phương tiện vận tải có tải trọng trên 2 tấn đi vào các trục
đường bê tông, (trừ công việc của tập thể). Xe đi trên đường nội đồng, rú
cát,nếu bị hư hại thì phải sửa chữa và phạt 100.000 đ/ lần vi phạm.
Điều 17. Giữ gìn vệ sinh, môi
trường
1. Mọi gia
đình và cá nhân đều phải có trách nhiệm giữ gìn vệ sinh môi trường. Các hộ gia
đình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt không được vứt các loại
bao bì, rác phế thải, không được để các loại nước thải chưa qua xử lý ra nơi
công cộng gây ô nhiễm môi trường.
2. Mọi người
phải có ý thức giữ gìn sức khoẻ cho mình và những người thân, phải thực hiện ăn
chín, uống sôi, và tiêm phòng đúng định kỳ theo quy định của cơ sở y tế để
phòng chống dịch bệnh. Làm tốt công tác vệ sinh môi trường, đường làng ngõ xóm
sạch đẹp, phát quang bờ, bụi, quét dọn đường giao thông.
3. Các hộ gia
đình ở trong làng văn hóa phải có công trình vệ sinh sạch sẽ, kín đáo. Giếng,
bể nước, nhà tắm… hợp vệ sinh. Các xác chết động vật phải được chôn lấp cẩn
thận, không được vứt bừa bãi làm ô nhiễm môi trường.
4. Các hộ gia
đình, cá nhân phải dùng nước sạch để
sinh hoạt.
Đời sống được nâng lên- nhà cửa ngày càng khang trang hơn
Đường làng xanh, sạch, đẹp
Kinh tế Nông nghiệp được chú trọng
Điều 18. Về dịch bệnh
1. Mọi gia
đình đều phải chấp hành tốt các quy định của Pháp lệnh thú y như:
a) Tiêm phòng
đầy đủ cho đàn gia súc, gia cầm.
b) Thực hiện
các biện pháp (phòng là chính) để không phát sinh và lây lan dịch bệnh.
2. Đối với gia
súc, gia cầm bị bệnh, bị dịch không được buôn bán, vận chuyển, giết mổ. Khi
phát hiện bị bệnh dịch phải báo cáo với thú y thôn để tổ chức tiêu huỷ tránh
lây lan dịch bệnh.
Điều 19. Về chăn, thả gia súc,
gia cầm
1. Các hộ gia
đình, cá nhân chăn nuôi gia súc, gia cầm được BĐH làng văn hóa, HTX và cơ quan
có thẩm quyền tạo điều kiện để phát triển, nhưng phải phù hợp với tập quán,
truyền thống và không gây ảnh hưởng đến cây trồng, hoa màu của người khác. Đối
với ruộng lúa, hoa màu nghiêm cấm chăn thả gia súc, không được chăn thả gia cầm
phá hoại lúa của bà con xã viên. Nếu người nào vi phạm thì bị buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu.
2. Trâu, bò...
của các hộ gia đình, cá nhân phải được chăn dắt cẩn thận. Ban đêm phải nhốt vào
chuồng. Nếu để trâu, bò… đi phá ruộng vườn, hoa màu của người khác tùy theo mức
độ thiệt hại thì phải bồi thường. Chó nuôi phải tiêm phong đầy đủ, nếu để chó
cắn người thì chủ chó phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Chăn nuôi được chú trọng- là một trong những điều kiện tốt để phát triển kinh tế hộ gia đình
Điều 20. Về bảo vệ, và phát triển
rú cát
1. Mọi người
trong làng có trách nhiệm bảo vệ hệ sinh thái rừng tự nhiên và rừng trồng phòng
hộ tại rú cát, không được chặt phá đào bới cây cối, đào khai thác đá cảnh… khi
chưa có ý kiến của Làng văn hóa; phòng
cháy, chữa cháy rừng theo quy định của
pháp luật.
2. Việc canh
tác,trồng hoa màu, xây dựng trang trại… tại vùng rú cát phải tuân thủ hướng
dẫn, kiểm tra, giám sát của trưởng thôn, BQT, BKS HTX
Chương VII
VỀ KHEN
THƯỞNG, XỬ LÝ VI PHẠM HƯƠNG ƯỚC
Điều 21. Về khen thưởng
Hộ gia đình, cá
nhân có thành tích trong việc xây dựng và thực hiện Hương ước của làng văn hóa
được ghi nhận công lao; được nêu gương người tốt, việc tốt trên hệ thống loa
truyền thanh hoặc tại các hội nghị toàn làng văn hóa được bình xét công nhận
gia đình văn hoá; được đề nghị các cấp chính quyền khen thưởng theo quy định
của pháp luật về thi đua khen thưởng.
Điều 22. Về xử lý vi phạm
Hương ước
Hộ gia đình,
cá nhân nào vi phạm các điều khoản trong Hương ước làng văn hóa tuỳ theo mức độ mà xử lý bằng các hình thức
sau đây:
1. Vi phạm lần
đầu và lỗi nhẹ được phê bình, nhắc nhở trước cuộc họp toàn thể nhân dân trong
làng.
2. Vi phạm từ
lần thứ hai trở lên, trên cơ sở thảo luận thống nhất trong tập thể BĐH làng văn hóa thì đưa ra kiểm điểm tại tổ
chức, đoàn thể mà người đó đang sinh hoạt, đưa ra kiểm điểm trước hội nghị nhân
dân; không được bình xét công nhận “gia đình văn hoá” mổi lần vi phạm để BĐH
làng văn hóa xữ lý phải nộp lệ phí 50 kg thóc.
Việc áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm trong Quy ước này không thay thế các biện pháp xử
lý theo quy định của pháp luật.
Chương VIII
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 23. Về quản lý, sử dụng
Quỹ làng văn hóa thu theo Hương ước
1. Làng văn
hóa có trách nhiệm thành lập BĐH làng văn hóa để thực hiện việc quản lý, sử
dụng Quỹ.
Nguồn Qũy làng
văn hóa bao gồm:
- Lập quỹ xây
dựng làng văn hóa theo sự đóng góp của toàn dân từ 1- 3 kg thóc/suất/ năm (Trừ
trường hợp có kế hoạch xây dựng lớn thu 3-5 kg).
- Thu phạt
những người vi phạm.
- Từ nguồn tài
trợ của các tổ chức kinh tế, sự đóng góp hảo tâm của mọi tổ chức, cá nhân đối
với làng.
2. Ban Điều
Hành Làng văn hóa có trách nhiệm trực tiếp quản lý, ghi sổ, sử dụng số tiền thu
được từ hộ gia đình, cá nhân trong làng vi phạm Hương ước, thông qua HTX thu hộ
qua sổ xã viên. Số tiền thu được sẽ chi cho các hoạt động chung như: Chi các hoạt động văn hóa, tu sữa sơn quét pha
nô, áp phích, băng cờ khẩu hiệu. Tổ chức hội, họp sơ kết, tổng kết để xây dựng
và thực hiện Hương ước; Chi khen thưởng cho các hộ gia đình, cá nhân chấp hành
tốt Hương ước làng văn hóa. Hàng năm BĐH làng văn hóa phải công khai số tiền
thu và số tiền chi trước cuộc họp toàn thể dân làng
Tuyệt đối nghiêm cấm sử dụng số
tiền thu được từ Qũy làng văn hóa vào các mục đích khác.
Điều 24. Tổ chức thực hiện
Hội nghị toàn dân, có lãnh đạo Đảng uỷ, UBND xã về dự
1. Bản Hương
ước này thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân trong làng, được Hội nghị toàn thể
nhân dân trong làng nhất trí thông qua
và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Trong quá
trình thực hiện, Hương ước sẽ được sửa đổi, bổ sung khi có những nội dung không
còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của làng văn hóa hoặc
theo nguyện vọng của nhân dân trong làng; việc sửa đổi, bổ sung Hương ước do Hội
nghị toàn thể nhân dân trong làng quyết định, sau khi được cấp có thẩm quyền
phê duyệt thì được tổ chức thi hành.
3. BĐH làng
văn hóa và toàn thể nhân dân trong làng có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc
Hương ước này.
4. Hương ước này đã được Hội nghị toàn thể nhân dân
trong làng Kim Giao nhất trí thông qua. Trưởng ban công tác Mặt trận; Bí thư
Chi bộ, Trưởng thôn ký chứng thực sau khi được ban hành ./.
T/M BĐH LÀNG VĂN HÓA
TRƯỞNG BAN
(Đã ký)
Võ Minh Đức